Ngày 13 tháng Hái Nho
Theo sau sự sụp đổ của chính quyền Jacobin vào tháng Bảy
1794 Chính biến Thermidor, một báo cáo vạch tội khiến Bonaparte bị quản chế tại
gia ở Nice vì mối liên hệ với anh em Robespierre. Thư kí của Napoleon,
Bourrienne, phản kháng cáo buộc này trong hồi kí của ông. Theo Bourrienne, sự đố
kị giữa Tập đoàn quân Alps và Tập đoàn quân Ý (mà Napoléon đứng vị trí thứ hai
lúc đó) chịu trách nhiệm về cáo buộc này. Sau một lời biện hộ sôi nổi trong một
lá thư mà Bonaparte gửi gấp tới các đặc phái viên Saliceti và Albitte, ông được
tha bổng mọi tội.
Ông được thả trong vòng hai tuần, và do năng lực của mình,
được yêu cầu thảo kế hoạch tấn công các vị trí Ý trong bối cảnh cuộc chiến
Pháp-Áo. Ông cũng tham gia vào một cuộc viễn chinh nhằm chiếm lại Corse từ tay
người Anh, nhưng quân Pháp đã bị đẩy lùi bởi Hải quân Hoàng gia.
Tháng Bốn 1795, Bonaparte đính hôn với Désirée Clary, em gái
của Julie Clary, người đã cưới anh trai của Bonaparte là Joseph; nhà Clary là một
gia đình thương nhân giàu có đến từ Marseilles. Cùng thời gian này, ông được chỉ
định tới Tập đoàn quân phía Tây, lúc này đang tham gia Chiến tranh Vendée — một
cuộc nội chiến kéo dài do phe bảo hoàng chống cách mạng gây ra ở vùng Vendée
phía tây miền trung nước Pháp. Làm một tư lệnh bộ binh, đó là một sự giáng cấp
từ tướng pháo binh — mà quân đội đã có đủ hạn ngạch — và ông viện cớ sức khỏe yếu
để từ chối nhậm chức.
Ông được chuyển tới Văn phòng Trắc địa của Ủy ban An ninh
Công cộng và tìm kiếm cơ hội được gửi tới Constantinople để phục vụ cho Sultan
nhưng không thành. Trong thời kì này, ông viết một tiểu thuyết lãng mạn ngắn
mang tựa đề Clisson et Eugénie kể về một người lính và tình nhân của anh ta, một
so sánh rõ ràng mối quan hệ của chính Bonaparte với Désirée. Ngày 15 tháng
Chín, Bonaparte bị loại khỏi danh sách các tướng của quân đội chính quy do việc
từ chối nhận nhiệm vụ ở chiến dịch Vendée. Ông đối diện với một tình trạng tài
chính khó khăn và thu hẹp những tham vọng về tiền đồ của mình.
Mùng 3 tháng Mười, những người bảo hoàng ở Paris tuyên bố một
cuộc nổi loạn chống lại Quốc Ước sau khi họ bị loại khỏi chính phủ mới, nội các
Đốc chính. Paul Barras, một lãnh đạo của Chính biến Thermidor, biết đến thành
tích quân sự của Bonaparte ở Toulon và trao cho ông quyền chỉ huy các lực lượng
ứng biến phòng thủ trụ sở Quốc Ước ở Cung điện Tuileries. Chứng kiến vụ thảm
sát đội Cận vệ Thụy Sĩ của nhà vua ba năm trước đó, ông nhận ra pháo binh có thể
là chìa khóa để kháng cự.
Ông lệnh cho một sĩ quan kị binh trẻ, Joachim Murat, chiếm
các khẩu đại bác lớn và dùng chúng để đẩy lui các đợt tấn công vào mùng 5 tháng
Mười 1795—13 tháng Vendémiaire (Hái Nho) năm IV theo Lịch Cách mạng Pháp. Sau
khi 1400 người bảo hoàng chết, số còn lại rút lui.
Sự thất bại của cuộc nổi dậy phe bảo hoàng đã dập tắt mối đe
dọa với Quốc Ước và giúp Bonaparte đột nhiên gặt hái được danh vọng, tiền tài
cùng với sự bảo trợ của nội các mới. Murat cưới một trong số các em gái và trở
thành em rể cũng như tiếp tục phục vụ Napoléon như một vị tướng. Bonaparte được
thăng hàm Trung tướng, đảm nhiệm chức Tư lệnh Tập đoàn quân Nội địa (Commandand
de l'armée de l'Intérieur) và sau đó Tập đoàn quân Ý được trao cho ông.
Trong vòng vài tuần ông đã gắn bó với nhân tình cũ của
Barras, Joséphine de Beauharnais. Họ cưới nhau vào mùng 9 tháng Ba 1796 sau khi
ông hủy đính ước với Désirée Clary.
Chiến dịch Ý thứ nhất
(1796–1797)
Hai ngày sau hôn lễ, Bonaparte rời Paris để nắm quyền chỉ
huy Tập đoàn quân Ý và dẫn dắt một cuộc chinh phạt thắng lợi nước Ý. Ở trận
Lodi ông đã đánh bại quân đội Áo và đẩy họ ra khỏi Lombardia. Ông thất bại
trong trận Caldiero bởi sự tăng viện của Áo, chỉ huy bởi József Alvinczi, tuy
nhiên Bonaparte lấy lại thế chủ động trong trận đánh có tính quyết định ở
Arcole tiến tới chinh phục địa phận của Giáo hoàng.
Bonaparte đã bác bỏ mong muốn của những người vô thần ở Hội
đồng Đốc chính là hành quân vào Roma và phế truất Giáo hoàng vì ông cho rằng điều
này sẽ tạo ra một khoảng trống quyền lực sẽ bị Vương quốc Napoli lợi dụng. Thay
vào đó, tháng Ba 1797, Bonaparte chỉ huy quân đội tiến vào Áo và buộc nước này
thương lượng một hòa ước. Hiệp ước Leoben đã cho Pháp quyền cai quản hầu hết Bắc
Ý và các miền đất phía dưới châu thổ sông Rhine (Pays-Bas, gồm Bỉ, Hà Lan và một
phần lãnh thổ Đức, Pháp hiện nay), trong khi một điều khoản bí mật hứa hẹn Cộng
hòa Venezia cho Áo. Bonaparte hành quân tới Venezia và buộc nó đầu hàng, kết
thúc 1100 năm nền độc lập của thành phố thương mại này; ông cũng lấy cớ cho
quân Pháp cướp bóc những báu vật như những bức tượng ngựa bằng đồng ở Giáo đường
Thánh Máccô.
Áp dụng những ý tưởng quân sự thông thường vào các tình huống
thực tế đã làm nên những vinh quang quân sự của ông, chẳng hạn như việc sử dụng
sáng tạo pháo binh như một lực lượng linh hoạt để hỗ trợ cho bộ binh. Ông nói về
chiến thuật của mình như sau: "Tôi đã đánh sáu mươi trận và tôi không học
được điều gì mà tôi chưa biết vào lúc bắt đầu. Nhìn Caesar xem; ông ta đánh trận
đầu giống như trận cuối".
Ông tinh thông trong việc sử dụng gián điệp và mưu trá và có
thể thắng trận chiến bằng cách che đậy việc triển khai quân và tập trung quân
vào điểm mấu chốt của mặt trận bị suy yếu của đối phương. Nếu ông không thể sử
dụng chiến lược bao vây ưa thích của mình (Mouvement en tenaille, chuyển quân
sang hai cánh và hợp vây kẻ địch), ông sẽ nắm lấy vị trí trung tâm và tấn công
hai lực lượng phối hợp ở điểm mấu chốt của họ, tung quân đánh một cánh cho đến
khi nó rút lui, sau đó quay lại đương đầu với cánh kia. Trong chiến dịch Ý này,
quân đội của Bonaparte bắt được 150 000 tù binh, 540 khẩu đại bác và 170 cờ hiệu.
Quân đội Pháp đã đánh 67 trận và thắng 19 trận chính quy (pitched battles,
trong đó hai bên chọn một địa điểm dàn quân trước khi đánh) nhờ kĩ thuật pháo
binh áp đảo và các chiến thuật của Bonaparte.
Trong khi chiến dịch diễn ra, Bonaparte trở nên ngày càng có
ảnh hưởng trong chính trị Pháp; ông thành lập hai tờ báo: một cho quân đội của
ông và một phát hành ở Pháp. Những người bảo hoàng đả kích Bonaparte vì cướp
phá Ý và cảnh báo rằng ông có thể trở thành một kẻ độc tài. Bonaparte gửi tướng
Pierre Augereau tới Paris để lãnh đạo một cuộc đảo chính và thanh lọc những người
bảo hoàng vào mùng 4 tháng Chín — sau được gọi là Đảo chính ngày 18 Fructidor.
Điều này đem Barras và các đồng minh phe Cộng hòa trở lại nắm quyền nhưng phụ
thuộc vào Bonaparte, người bấy giờ đang tiến hành đàm phán hòa ước mới với Áo.
Những thương lượng này dẫn tới Hiệp ước Campo Formio, và Bonaparte trở lại
Paris tháng Mười hai như một anh hùng. Ông gặp Talleyrand, Bộ trưởng Ngoại giao
mới của Pháp — người về sau phục vụ ở cùng cương vị cho đế chế của Napoléon —
và họ bắt đầu chuẩn bị cho một cuộc xâm lược nước Anh
Viễn chinh tới Ai Cập
(1798-1801)
Sau hai tháng lên kế hoạch, Bonaparte quyết định rằng lực lượng
hải quân Pháp chưa đủ mạnh để đối diện với Hải quân Hoàng gia ở Eo biển Anh và
đề xuất một cuộc viễn chinh để chiếm Ai Cập và do đó phá sự tiếp cận của người
Anh với những nguồn lợi thương mại ở Ấn Độ. Bonaparte mong mỏi thiết lập một sự
hiển hiện của Pháp ở Trung Đông, với giấc mộng tối hậu về việc liên kết với một
kẻ thù Hồi giáo của Anh ở Ấn Độ, Tippu Sultan.
Napoléon đảm bảo với Hội đồng Đốc chính rằng "ngay khi
ông chinh phục được Ai Cập, ông sẽ thành lập những mối quan hệ với các hoàng
thân Ấn Độ, và cùng với họ, tấn công người Anh tại các thuộc địa của họ".
Theo một bản tường trình tháng Hai 1798 bởi Talleyrand: "Khi đã chiếm giữ
và củng cố Ai Cập, chúng ta sẽ gửi một lực lượng 15000 người từ Suez tới Ấn Độ,
kết hợp với Tipu-Sahib và đánh đuổi người Anh". Hội đồng đồng ý với kế hoạch
để bảo đảm tuyến giao thương tới Ấn Độ.
Bức Bonaparte trước Nhân sư (tranh vẽ khoảng. 1868) của
Jean-Léon Gérôme, Lâu đài Hearst
Tháng Năm 1798, Bonaparte được bầu làm thành viên của Viện
Hàn lâm Khoa học Pháp. Chuyến viễn chinh Ai Cập của ông có sự tham gia của 167
nhà khoa học bao gồm các nhà toán học, tự nhiên học, hóa học và trắc địa; trong
những khám phá của họ có Phiến đá Rosetta, và công trình của họ được xuất bản
thành cuốn Description de l'Égypte năm 1809.
Trên đường tới Ai Cập, Bonaparte tới Malta vào ngày 9 tháng
Sáu 1798, khi đó dưới quyền kiểm soát của dòng Hiệp sĩ Cứu tế. Hai trăm hiệp sĩ
gốc Pháp không ủng hộ vị Đại trưởng lão, Ferdinand von Hompesch zu Bolheim, và
bày tỏ rằng họ sẽ không chiến đấu chống lại đồng bào. Hompesch đầu hàng sau một
sự kháng cự yếu ớt, và Bonaparte chiếm được một căn cứ hải quân quan trọng với
tổn thất chỉ ba binh sĩ.
Tướng Bonaparte cùng đoàn quân của ông đã phải né tránh cuộc
truy đuổi của Hải quân Hoàng gia và cập cảng ngày 1 tháng Bảy ở Alexandria. Ông
đánh trận Shubra Khit chống lại Mamluk, giới quân sự thống trị Ai Cập bấy giờ.
Điều này giúp những người Pháp thực hành chiến thuật phòng thủ cho trận Kim Tự
Tháp diễn ra ngày 21 tháng Bảy, cách các kim tự tháp 24 km. Lực lượng của
Bonaparte vào khoảng 25000, xấp xỉ bằng quân số kỵ binh Mamluk, nhưng ông đã lập
những khối quân hình vuông rỗng với quân nhu được giữ an toàn bên trong. Kết quả,
chỉ có 29 người Pháp chết, so với xấp xỉ 2000 người Ai Cập. Chiến thắng này đã
củng cố tinh thần cho quân đội Pháp.
Bức Trận Kim tự tháp ngày 21 tháng Bảy 1798 bởi Louis-François,
Baron Lejeune, 1808
Ngày 1 tháng Tám, hạm đội Anh dưới quyền Horatio Nelson đã bắt
hoặc tiêu diệt hầu như tất cả chỉ trừ hai chiếc tàu Pháp trong trận sông Nile,
và mục tiêu của Bonaparte về một vị thế tăng cường của người Pháp ở Địa Trung Hải
tan vỡ. Quân đội của ông thành công trong sự gia tăng ngắn hạn quyền lực của
Pháp ở Ai Cập, tuy nhiên sau đó đối mặt với những cuộc nổi dậy liên tiếp. Đầu
năm 1799, ông chuyển quân tới tỉnh Damascus thuộc đế quốc Ottoman (Syria và
Galilea). Bonaparte chỉ huy 13000 lính Pháp trong cuộc chinh phục các thành thị
duyên hải Arish, Gaza, Jaffa, và Haifa. Cuộc tấn công vào Jaffa đặc biệt đẫm
máu: Bonaparte, khi khám phá ra phần nhiều trong những người bảo vệ thành phố
là cựu tù nhân chiến tranh từng hứa danh dự không trả thù để được tha, đã ra lệnh
cho quân phòng thủ cùng 1.400 khác bị xử tử bằng lưỡi lê hoặc dìm chết đuối để
tiết kiệm đạn. Đàn ông, đàn bà và trẻ con bị cướp và giết trong ba ngày.
Với đội quân bị suy yếu bởi bệnh dịch — chủ yếu là dịch hạch
— và nguồn quân nhu nghèo nàn, Bonaparte không thể hạ các pháo đài ở Akko và trở
lại Ai Cập vào tháng Năm. Để tăng tốc cuộc hành quân, ông ra lệnh bỏ lại những
người lính ốm yếu vì dịch hạch và bắt họ uống thuốc độc. (Tuy nhiên, những người
Anh sau này chứng kiến đã ghi chép lại rằng hầu hết những người này sống sót và
không bị đầu độc). Những người ủng hộ ông lập luận rằng điều này là cần thiết để
đối phó với các trận tập hậu của quân Ottoman, và thực tế những người bỏ lại
còn sống thường bị tra tấn và chặt đầu bởi kẻ địch. Trở lại Ai Cập, vào ngày 25
tháng Bảy, Bonaparte đánh bại cuộc tấn công đổ bộ của Ottoman trong trận Abukir.
http://worldman360.blogspot.com/2016/03/so-luoc-ve-napoleon-bonapartephan-3.htmlhttp://worldman360.blogspot.com/2016/03/so-luoc-ve-napoleon-bonapartephan-1.html
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét